Nam hoàng bá là vỏ cây núc nác. Có tên khoa học là oroxylum indicum. Bộ phận dùng làm thuốc là vỏ cây phơi khô. Theo Đông y, nam hoàng bá tính mát, có tác dụng chống viêm ngứa, chữa kiết lỵ, tiêu chảy, chữa ho, chữa đau vú, áp-xe vú, mụn nhọt. Chữa bệnh sởi đậu, sốt phát ban, viêm gan, đau mắt đỏ, một số bệnh ngoài da như: eczema, chàm hóa các nốt sần, viêm da cơ địa, tổ đỉa, á sừng… Nam hoàng bá được dùng làm thuốc trong những trường hợp:
Giá bán: 200,000 đ
Đau tức hạ sườn phải, da vàng, nước tiểu đỏ (do can khí uất kết):
Bài 1: Nam hoàng bá 16g, bạch thược 12g, đan bì 12g, chi tử 12g, sài hồ 16g, xa tiền 12g, nhân trần 12g, cỏ mực 16g, rau má 20g, cam thảo đất 16g. Cho các vị vào ấm, đổ nước 1 lít, sắc còn 400ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
Bài 2: Nam hoàng bá 16g, diệp hạ châu 16g, cối xay 16g, đương quy 12g, sài hồ 12g, tam thất 10g, thanh bì 12g, bưởi bung 16g, xa tiền 12g, bạch mao căn 16g, cam thảo 12g. Cho các vị vào ấm, đổ 1 lít nước sắc còn 400ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
Cây núc nác.
|
Viêm da ngứa lở, các tổn thương bị tiết dịch có biểu hiện bội nhiễm dùng các bài:
- Thuốc uống: nam hoàng bá (sao qua) 16g, kim ngân 16g, kinh giới 16g, phòng phong 10g, chi tử 10g, đinh lăng 16g, sài hồ 16g, xuyên khung 10g, bạch chỉ 10g, sài đất 20g, lá bưởi bung 16g, uất kim 10g, cam thảo 10g. Cho các vị vào ấm, đổ 1 lít nước sắc còn 400ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
- Thuốc rửa tại chỗ: nam hoàng bá 50g, lá kinh giới 30g, lá đinh lăng 30g. Các thứ trên cho vào ấm, đổ nước nấu sôi, nhấc khỏi bếp cho nguội. Dùng nước này rửa các chỗ bị tổn thương, ngày 2 lần.
Trị bệnh sởi (bài thuốc dùng cho trẻ em): nam hoàng bá 6g, kinh giới 6g, ngân hoa 4g, lá dấp cá 5g, mã đề thảo 4g, sài đất 5g, liên kiều 4g, hoa hồng bạch 4g, sài hồ 4g, đương quy 4g, cam thảo 4g, huyền sâm 4g. Cho các vị vào ấm, đổ 2 bát nước sắc còn 1 bát, chia 3 – 4 lần uống trong ngày. Nên kiêng gió, kiêng nước lạnh cho trẻ.
Hội chứng lỵ (đau bụng đi ngoài nhiều lần, phân có lẫn máu mũi, mùi tanh): Nam hoàng bá 20g, hoàng liên 12g, khổ sâm 16g, cỏ sữa 20g, lá nhót 20g, hoài sơn 16g, liên nhục 16g, bạch truật 12g, chích thảo 12g, cỏ mực (sao đen) 20g. Sắc uống ngày 1 thang.
- Hoặc nam hoàng bá 16g, búp ổi 12g, khổ sâm 16g, đinh lăng 20g, rau sam 20g, cỏ sữa 20, hoa hòe (sao đen) 16g, bạch truật (sao hoàng thổ) 12g, cây cứt lợn 16g, ngũ gia bì 16g, hoàng đằng 12g, chích thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Kiêng chất tanh, dầu mỡ.
Hoàng bá là vỏ cây núc nác phơi khô.
|
Trong vú có hòn cục, sờ vào thấy rắn và đau, có thể sốt nhẹ, cần điều trị sớm bằng các bài thuốc sau:
- Thuốc uống: nam hoàng bá 16g, hương nhu trắng 16g, cát căn 16g, hoàng cung trinh nữ 6g, uất kim 10g, đinh lăng 16g, táo nhân (sao đen) 16g, hoa hòe (sao vàng) 20g, hoàng kỳ 12g, đương quy 12g, xuyên khung 12g, tam thất 12g, xương bồ 16g, huyền sâm 12g, chích thảo 12g. Cho các vị trên vào ấm, đổ 1 lít nước, sắc còn 350ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày. 15 – 20 ngày là một liệu trình.
- Đồng thời dùng bài thuốc chườm: lá nam hoàng bá, lá đinh lăng mỗi thứ 50g, sao rượu. Dùng miếng vải mềm gói lại, chườm tại chỗ. Khi thuốc nguội, cần sao lại để chườm tiếp. Công dụng: tiêu viêm, giải uất, phá kết.
TTND.BS. Trần Văn Bản
Xem thêm: Cây Hoàng bá Nam (Hoàng bá, núc nác)
1. Tên khoa học: Phellodendron chinense Schneid.
2. Họ: Cam (Rutaceae).
3. Tên khác: Hoàng nghiệt.
4. Mô tả:
Cây: Hoàng bá là cây to cao, có thể cao tới 20-25m, đường kính thân có thể đạt tới 70cm. Vỏ thân dày phân thành hai tầng rõ rệt. Tầng ngoài màu xám, tầng trong màu vàng. Lá mọc đối, kém gồm 5-13 lá chét nhỏ hình trứng dài, mép nguyên. Hoa tím đen, trong chứa 2-5 hạt. Ra hoa mùa hạ.
Dược liệu: Vỏ thân màu vàng nâu, dày 0,3 - 0,5 cm, dài 20 - 40 cm, rộng 3 - 6 cm. Mặt ngoài còn sót lại lớp bần màu nâu đất, có những vết lõm sần sùi và rãnh dọc, mặt trong màu nâu nhạt, có nhiều các vết nhăn dọc nhỏ, dài, vết bẻ lởm chởm, chất rắn, nhẹ, màu vàng rơm.Vỏ cành cây dày 0,15 - 0,20 cm, mảnh dài cuộn lại thành hình ống. Mặt ngoài có lớp thụ bì màu nâu xám, khi bong ra để lộ lớp bần màu nâu sẫm, trên có lấm tấm nhiều vết lỗ vỏ, mặt trong màu nâu nhạt hơn, có những vết nhăn nhỏ, dọc. Chất giòn, dễ bẻ, mặt bẻ lởm chởm, để lộ mô mềm màu vàng rơm.
5. Phân bố:
Ta di thực vào trồng từ cuối những năm 1960 ở Lào Cai (Sa Pa), Lai Châu (Sìn Hồ), Vĩnh Phú (Tam Đảo) và Lâm Đồng (Đà Lạt). Cây ưa khí hậu mát vùng núi cao từ 1300m trở lên.
6. Trồng trọt:
Hoàng bá là cây di thực, có nguồn gốc ở Trung Quốc. Cây ưa khí hậu lạnh mát quanh năm, nhiệt độ trung bình năm 15-20oC, lượng mưa 2500mm/năm. Đất trồng Hoàng bá có nhiều mùn và có tầng canh tác sâu. Cây sống tốt ở thung lũng, ven suối và nơi khuất gió, phát triển chậm ở đất khô cằn, thiếu nước và dãi nắng.
Hoàng bá được trồng bằng hạt. Mùa gieo trồng thường vào tháng 2-3. Chọn đất màu mỡ, thoát nước làm vườn ươm. Trước khi gieo độ 15 ngày, cày đất cho ải. Sau đó, bừa nhỏ đất, lên luống cao 12-15cm, rộng 70-80cm. Trên mặt luống theo chiều dài, đánh 3 rạch sâu 10-15cm, cách nhau độ 30cm và bón lót 200-300kg phân chuống mục. Trộn phân với đất cho đều, rồi tiến hành gieo hạt đã được ngâm nước 1 ngày. Mỗi sào Bắc bộ cần 1-1,5kg hạt. Gieo xong, phủ đất bột hặc đất cso phan hữu cơ lên rạch 1 lớp dày độ 1cm. Sau đó, phủ rơm rạ hay cỏ khô để giữ ẩm và chống kết váng ở mặt luống. Khoảng độ 30-35 ngày, cây mcoj. Đất gieo hạt phải đủ ẩm để hạt chóng mọc. Do đó, phải theo dõi tình hình thời tiết, cách 2-3 ngày nên tưới nước 1 lần. Khi cây đã mọc phải chú ý đất luyoon ẩm và tưới thúc bằng nước phân chuồng hoặc ure pha loãng. Tưới độ 2-3 lần. Khi cây cao 7-10cm, tỉa dặm đảm bảo cây cách nhau 2,5-3cm. Đến độ cao 15-20cm, tỉa dặm lần cuối cùng, đẻ mỗi cây cách nhau 7-10cm. Cần chú ý nhổ cỏ khi cây mới mọc. Từ khi cây mọc đến khi giao tán phủ kín luống, có thể làm cỏ 2-3 lần, vì trong thời gian này, trời ấm, mưa nhiều, cỏ mọc nhanh. Về mùa mưa, cần tháo nước để tránh bệnh thối gốc và vàng lá. Sau mỗi trận mưa rào, luống đất bị xói lở, cần vun đất kịp thời cho kín gốc rễ. Hoàng bá bắt đầu rụng lá vào mùa đông. Lúc này cần vun luống cho cây ấm gốc.
Khi cây con đủ 1 năm tuổi, tiến hành đánh trồng. Chọn thung lũng, bìa rừng, ven suối hay ven đường nơi đất tốt, màu mỡ, thoát nước và khất gió. Đào hố trước khi trồng 1 tháng với khoảng cách 2,5 x 3m. Hố sâu 30cm, rộng 35-40cm. Mỗi hố bón 1-2kg phân chuồng và mùn rác. Trồng đến đâu đánh cây giống đến đó. Có thể trồng vào tháng 2-3. Khi bứng cây không để đứt rễ hoặc xây sát gốc rễ. Nếu bị giập đoạn rễ nào nên lấy dao sắc cắt ngay đoạn rễ đó. Đặt cây ngay ngắn vào hố, vun đất dần dần, vun đến đâu nén chặt đất đến đó. Tưới nước cho đủ ẩm. Sau khi trồng 15 ngày, phải thường xuyên tưới nước cho cây chóng bén rễ. Naw thứ nhất, trung bình mỗi tháng làm cỏ một lần. Năm thứ 2 và 3, làm cỏ vun gốc vào mùa hè, mùa thu.
Hoàng bá trồng ở Sapa ra hoa vào tháng 5-6, quả chín vào tháng 11-12. Khi quả chín hái về để thành đống hay cho vào thùng, chú ý không nén chặt. Phủ rơm rạ hay chiếu, ủ 10-15 ngày. Sau đó, dùng tay bóp cho hạt rơi ra, đem dãi và phơi khô. Bảo quản hạt trong lọ nút kín để nơi khô ráo, thoáng gió. Trọng lượn 1000 hạt khoảng 15g.
Sau khi trồng khoảng 10 năm, có thể thu hoạch.
Gieo trồng bằng hạt. Cây ưa khí hậu mát vùng núi cao từ 1.300m trở lên.
7. Bộ phận dùng:
Vỏ thân, vỏ cành già đã cạo bỏ lớp bần, phơi khô của cây Hoàng bá (Phellodendron chinense Schneid.).
8. Thu hái, chế biến:
Thu hoạch vào tháng 3-6. Thời gian này, vỏ dễ bóc và đảm bảo chất lượng. Có thể cưa cả cây để bóc toàn bộ vỏ thân cành. Hoặc bóc theo định kỳ xung quanh thân cành, cây vẫn tái sinh và cho thu hoạch. Cạo bỏ lớp vỏ ngoài, chỉ còn lớp trong dày chừng 1cm, sau đó cắt thành từng miếng dài 9cm, rộng 6cm, phơi hoặc sấy khô. Loại tốt có màu vàng tươi rất đẹp, vị rất đắng. Khi dùng rửa sạch, ủ mềm, thái mỏng, phơi khô, tẩm rượu, sao vàng hoặc sao cháy.
9. Thành phần hoá học:
Vỏ thân chứa 1,6% berberin; còn có các alcaloid khác là palmatin, magnoflorin, jatrorrhizin, phellodendrin, menispermin, candicin. Ngoài ra còn có các chất đắng obakunon, obakulacton, và các chất khác: b-sitosterol và campesterol.
10. Tác dụng dược lý:
Nhiều thí nghiệm đã chứng minh tác dụng kháng sinh của hoàng bá, dịch chiết bằng cồn ức chế các vi trùng Staphyllococcus, lỵ, thổ tả, Salmonella.
11. Công năng:
Thanh nhiệt táo thấp, tả hoả trừ chưng, giải độc.
12. Công dụng:
Chữa đái đục, đại tiện ra máu, mắt đỏ, ù tai, phụ nữ có khí hư, tả lỵ thấp nhiệt, hoàng đản, đới hạ, nhiệt lâm, cước khí, uỷ tích (chân teo què), cốt chưng lao nhiệt, mồ hôi trộm, di tinh, lở ngứa, thũng độc, thấp chẩn sang dương.
Chiết xuất berberin.
Chiết xuất berberin.
Còn dùng làm thuốc bổ đắng, chữa tiêu hoá kém và làm thuốc giun.
Đắp chữa mụn nhọt, vết thương.
Ta thường dùng vỏ cây núc nác với tên Hoàng bá nam dùng chữa các bệnh dị ứng.
13. Cách dùng, liều lượng:
Ngày dùng 4-16g, dạng thuốc sắc, rượu thuốc.
14. Bài thuốc:
14.1. Kiện vị kém tiêu hóa, hoàng đản do viêm ống mật: Hoàng bá 12g, chi tử 12g, cam thảo 6g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày.
14.2. Có thai đi lỵ: Hoàng bá tẩm mật sao cho cháy, tán nhỏ. Dùng một củ tỏi nướng chín, bóc vỏ giã nát, thêm bột hoàng bá vào viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30-40 viên.
14.3. Trẻ em nhiệt, tả (ỉa toé ra nước hoặc ỉa phân hoa cà, hoa cải, phân dính bột lẫn máu hoặc có sốt, khát) tiểu tiện đỏ, sẻn: Hoàng bá cạo lớp vỏ trong, tán nhỏ, cho uống với nước cơm, mỗi lần 2-3g, ngày uống 4-5 lần.
14.4. Viêm gan cấp tính, phát sốt, bụng trướng, đau vùng gan, đại tiện táo bón, tiểu tiện đỏ và sẻn: Hoàng bá 16g, Mộc thông, Chi tử, Chỉ xác, Đại hoàng (hay Chút chít), Nọc sởi, mỗi vị 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang).
14.5. Di tinh, đái đục: Hoàng bá sao 640g, Vỏ hến nung 640g, tán nhỏ mỗi lần uống 1 thìa, ngày 2 lần.
14.6. Lở miệng, loét lưỡi: Hoàng bá cắt nhỏ, ngậm, có thể nuốt nước hoặc nhổ đi.
Kiêng kỵ: Tỳ hư không nên dùng.
Kiêng kỵ: Tỳ hư không nên dùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét